Học thuyết Âm Dương - Khái niệm và quy luật

Học thuyết Âm Dương - Khái niệm và quy luật
Thứ Tư,
21/04/2021
Đăng bởi: Ngũ Phúc Đường

I. Định nghĩa

Mọi sự vật hiện tượng luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau, không ngững vận động, biến hóa để phát sinh phát triển, tiêu vong được gọi là học thuyết âm dương.

Trong y học học thuyết âm dương quán triệt từ đầu cho đến cuối, từ đơn giản cho đến cuối, từ đơn giản cho đến phức tạp, trong toàn bộ quá trình cấu tạo của cơ thể, trong sinh lý bệnh, sinh lý, chẩn đoán bệnh và phương pháp chữa bệnh YHDT (thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công...)

II. Các quy luật căn bản trong học thuyết âm dương

1. Âm dương đối lập

Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt của âm dương

VD: Ngày và đêm, nước và lửa, hưng phấn và ức chế

2. Âm dương hỗ căn

Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau (để phát triển). Hai mặt âm và dương tuy đối lập nhưng phải nương tựa vào nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của một sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển.

VD: Có đồng hóa thì mới có dị hóa, không có đồng hóa thì dị hóa cũng không thực hiện được, có số âm mới có số dương, hưng phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não.

3. Âm dương tiêu trưởng

Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển. Quy luật này nói nên sự vận động không ngừng sự chuyển hóa lẫn nhau giữa âm và dương. 

VD: Chuyển hóa khí hậu 4 mùa.

Quy luật này có các trạng thái của vận động sau: 

 - Âm dương dương trưởng (lạnh giảm và nóng tăng) 

- Dương tiêu âm trưởng (nóng giảm và lạnh tăng) 

- Dương cực sinh âm và âm cực sinh dương; hàn cực sinh nhiệt và nhiệt cực sinh hàn

 VD: Trong quá trình phát triển của bệnh tật 

Bệnh thuộc phần dương (sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (mất nước), hoặc bệnh tại phần âm (mất nước, điện giải, mất máu) ảnh hưởng phần dương (gây trụy mạch, hạ huyết áp, choáng gọi thoát dương).

 

4. Âm dương bình hành

Hai mặt âm dương tuy đối lập, vận động không ngừng nhưng luôn luôn lập lại được thế thăng bằng, quân bình giữa hai mặt. Thăng bằng của mặt âm dương nói nên mâu thuẫn thống nhất, vận động và nương tựa lần nhau của vật chất.

 Từ 4 quy luật nên của học thuyết âm dương, trong y học khi vận dụng người ta thấy được một số phạm trù sau (3 pham trù):

a. Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương

Sự đối lập giữa hai mặt âm dương là tuyệt đối, nhưng trong một điều kiện cụ thể nào đó vó tính chất tương đối.

VD Tuyệt đối: hàn thuộc âm đối lập ôn thuộc dương

Trên lâm sàng: sốt là nhiệt thuộc dương nhưng nếu sốt cao thuộc lý dùng thuốc hàn, nếu sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát (lương)

b. Trong âm có dương, trong dương có âm

Âm và dương có quan hệ hỗ căn, nương tựa vào nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển.

VD sự phân chia thời gian trong (24h): ban ngày thuộc dương, nhưng từ 6-12h trưa là phân dương trong dương, từ 12-18h là phần âm trong dương; ban đêm thuộc âm, nhưng từ 18-24h là phần âm trong âm, từ 0-6h là phần dương trong âm. 

Trên lâm sàng thấy khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt thì tránh cho ra mồ hôi nhiều vì gây mất nước và điện giải

Triệu chứng bệnh thì có triệu chứng của hàn và của nhiệt, hư và thực cùng xuất hiện

Về cấu trúc cơ thể thì tạng thuộc âm - phủ thuộc dương, nhưng trong tạng và phủ lại có cả âm và dương, như tạng can có can âm và can dương...

c. Bản chất và hiện tượng

Thông thường thì bản chất phải phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất của bệnh: Bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn. 

Nhưng có khi bản chất và hiện tượng không phù hợp với nhau, hiện tượng này gọi là sự "thật giả hay chân giả", trên lâm sàng khi chẩn đoán bệnh cần phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa đùng nguyên nhân bệnh.

VD: Bệnh truyền nhiễm gây chứng sốt cao (chân nhiệt), nhưng do tình trạng nhiễm độc biến chứng gây trụy mạch ngoại biên làm cho chân tay lạnh, vã mồ hôi lạnh giả hàn), trường hợp này phải dùng thuốc mát để điều trị. 

Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn), gây mát nước nhiều và mất điện giải gây nên tình trạng nhiễm độc thần kinh, xuất hiện các triệu chứng co giật, sốt (giả nhiệt), trường hợp này dùng thuốc ấm nóng để điều trị nguyên nhân bệnh. 

III. Ứng dụng học huyết âm dương trong y học

1. Về cấu tạo của cơ thể và sinh lý

Âm bao gồm: tạng, kinh âm, huyết, bụng, bên trong, phía dưới. TK thực vật (ức chế)....

Dương bao gồm: Phủ, kinh dương, khí (cn hoạt động...), phần lưng, phía trên, TK động vật....

Tạng thuộc âm, do trong âm có dương và ngược lại nên ta có bảng sau:


TẠNG

Âm

Dương


Phế

Phế âm

Phế khí


Thận

Thận âm

Thận dương


Can

Can huyết

Can khí


Tâm

Tâm huyết

Tâm khí


Tỳ

Tỳ âm

Tỳ dượng


CN sinh lý

Vật chất và dinh dưỡng

Hoạt động cơ năng

 

 2. Về quá trình phát sinh và phát triển bệnh

a. Bệnh tật phát sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng và thiên suy:

Hội chứng Thiên thắng:

Dương thắng gây chứng nhiệt (sốt, mạch nhanh, khát nước, phân táo, nước tiểu đỏ, mạch sác...)

Âm hư: mất nước điện giải, hội chứng ức chế TK giảm (hứng phân)

b. Trong quá trình phát triển của bệnh, tính chất của bệnh còn chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt âm dương:

Như bệnh tại phần dương ảnh hưởng đến phần âm (dương thắng tắc âm bệnh), VD như sốt cao kéo dài gây mất nước.

Như bệnh tại phần âm ảnh hưởng đến phần dương (âm thắng tắc dương bệnh), VD như ỉa chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải làm nhiễm độc TK gây ra triệu chứng sốt, co giật và có thể gây trụy mạch thoát dương

c. Sự mất thăng bằng âm dương gây ra các chứng bệnh ở những vị trí khác nhau tùy theo vị trí đó thuộc về phần âm hay dương:

Dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt, người và tay chân nóng, vì phần dương thuộc biểu, thuộc nhiệt

Âm thịnh sinh ngoại nhiệt: ỉa chảy, người lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý thuộc hàn.

Âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, nước tiểu đỏ...

Dương hư sinh ngoại hàn: Sợ lạnh, chân tay lạnh vì phần dương khí bên ngoài bị giảm sút.

3. Về chẩn đoán bệnh

a. Dựa vào tứ chẩn để khám bệnh:

Vọng, văn, vấn thiết, để khai thác các triệu chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc

b. Dựa vào 8 cương lĩnh:

Để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế trung nhất của người bệnh (biểu - lý, hư - thực, hàn - nhiệt, âm - dương), Trong đó âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương; thường bệnh ở biểu là thực, nhiệt thuộc về dương; bệnh ở lý là hàn, là hư thuộc về âm.

Dựa vào tứ chẩn mục đích khai thác các triệu chứng bệnh và căn cứ vào bát cương để bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của tạng phủ kinh lạc... 

4. Về chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh

a. Chữa bệnh:

Là điều hòa lại sự mất thăng bằng về âm dương của cơ thể tùy theo tình trạng hư -  thực, hàn - nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau như châm cứu, thuốc, xoa bóp, khí công...

b. Về thuốc:

Được chia thành 2 loại:

Thuốc lạnh, mát (hàn lương) thuộc âm dùng chữa bệnh thuộc dương.

Thuốc nóng, ấm (nhiệt ôn) thuộc dương dùng để chữa bệnh hàn thuộc âm.

c. Về châm cứu: 

Bệnh nhiệt dùng châm, hàn dùng cứu; bệnh hư thì bổ, thực thì tả.

Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) dùng các huyệt su sau lưng (thuộc dương); bệnh thuộc phủ (thuộc dương) dùng các huyệt mộ ở vùng ngực, bụng (thuộc âm), tuân theo nguyên tắc "theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương".

Nguồn: Tổng Hội Y Học Việt Nam

 

popup

Số lượng:

Tổng tiền: